Kinh nghiệm đo bóc khối lượng xây dựng của một số nước và bài học cho Việt Nam

Công tác đo bóc khối lượng là hoạt động đóng vai trò quan trọng trong các giai đoạn của quá trình đầu tư xây dựng, bởi khối lượng xây dựng là một trong những căn cứ thiết yếu và có tính chất quyết định đến việc xác định giá trị dự toán và làm căn cứ quyết định đầu tư, chọn phương án đối với chủ đầu tư.

Đồng thời, khối lượng xây dựng cũng là một cơ sở cho việc kiểm soát chi phí, thanh quyết toán giá trị thi công xây dựng công trình. Tuy nhiên, làm thế nào để thực hiện có hiệu quả và nâng cao tính chính xác trong công tác đo bóc khối lượng xây dựng tại Việt Nam đòi hỏi cần phải nghiên cứu và rút ra những kinh nghiệm từ những bài học của các nước trên thế giới để áp dụng phù hợp ở Việt Nam.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Nhằm nâng cao tính chính xác trong việc xác định khối lượng xây dựng, qua đó nâng cao tính chính xác của việc lập chi phí đầu tư xây dựng, Bộ Xây dựng đã công bố Quyết định số 451/QĐ-BXD ngày 25/5/2017 của Bộ Xây dựng về việc Công bố Hướng dẫn đo bóc khối lượng xây dựng công trình. Việc công bố các hướng dẫn và quyết định trên là một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế và là phương tiện cần thiết cho hoạt động của các chuyên gia định giá xây dựng, quản lý chi phí trong việc lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, hiệu quả, tác dụng của các hướng dẫn trên đối với những người làm công tác xác định khối lượng xây dựng, lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng cần được xem xét, nghiên cứu, đánh giá, từ đó tìm kiếm thêm những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa tính chính xác trong đo bóc khối lượng, thuận lợi trong tra cứu, sử dụng hướng tới mục tiêu cuối cùng là nâng cao tính chính xác, độ tin cậy của việc xác định chi phí đầu tư xây dựng công trình.

2. KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC

Tương tự như ở Việt Nam, tính toán khối lượng xây dựng công trình là một khâu quan trọng trong quá trình xác định chi phí đầu tư xây dựng. Dưới đây là tham khảo về cách thức đo bóc, xác định khối lượng xây dựng, sử dụng khối lượng xây dựng và mối liên hệ giữa khối lượng xây dựng và chi phí đầu tư xây dựng ở một số nước.

2.1. Đo bóc khối lượng xây dựng ở Mỹ

Phương pháp chuẩn đo bóc khối lượng xây dựng (SMM – Standard Method of Measurement) không dược sử dụng như là công cụ cho việc xác định dự toán chi phí ở Mỹ.

– Giai đoạn lập dự toán ngân sách: Khối lượng và đơn giá sẽ được lấy từ dự án tương tự đã thực hiện. Dự toán chi phí của dự án bao gồm cả chi phí chung, trượt giá, lợi nhuận và được dựa trên kinh nghiệm các dự án đã thực hiện.

– Giai đoạn thiết kế sơ bộ bước đầu và thiết kế sơ bộ cuối cùng là thiết kế có tính chất phác thảo, định hướng. Khối lượng và cách tính toán khối lượng kết hợp giữa bản vẽ và số liệu các công trình đã thực hiện. Đơn giá dự toán áp dụng cho các khối lượng này sử dụng giá của các dự án trước đó và từ khảo sát thị trường. Dự toán chi phí của dự án bao gồm cả chi phí chung, trượt giá, lợi nhuận và được dựa trên kinh nghiệm các dự án đã thực hiện, dự toán chi phí của dự án trong giai đoạn này có mức dự phòng cao từ 7 – 10%.

– Giai đoạn thiết kế triển khai: Thiết kế bao gồm các bản vẽ kết cấu đã có kích thước (dù không chi tiết như cốt thép…), các bản vẽ kiến trúc sơ bộ, danh mục hoàn thiện chi tiết… Khối lượng và cách tính toán khối lượng kết hợp giữa bản vẽ và số liệu các công trình đã thực hiện. Đơn giá dự toán áp dụng là đơn giá của các dự án trước đó và từ khảo sát thị trường. Dự toán chi phí của dự án bao gồm cả chi phí chung, trượt giá, lợi nhuận và được dựa trên kinh nghiệm các dự án đã thực hiện, dự toán chi phí của dự án trong giai đoạn này có mức dự phòng 5%.

– Giai đoạn tài liệu xây dựng hoàn thành 75%: Giai đoạn này bản vẽ kết cấu đã có kích thước, danh mục hoàn thiện chi tiết. Khối lượng và cách tính toán khối lượng này có thể dựa hoàn toàn vào bản vẽ. Đơn giá dự toán áp dụng đơn giá của các dự án trước đó và từ khảo sát thị trường. Dự toán chi phí của dự án bao gồm cả chi phí chung, trượt giá, lợi nhuận và được dựa trên kinh nghiệm các dự án đã thực hiện. Dự toán chi phí của dự án trong giai đoạn này có mức dự phòng 02 – 5%.

– Giai đoạn tài liệu xây dựng hoàn thành 100%: Ở giai đoạn này, thiết kế bao gồm các bản vẽ kết cấu với kích thước đầy đủ. Khối lượng trong giai đoạn này được do bóc, tính toán hoàn toàn dựa trên bản vẽ và không thể chia nhỏ hơn được như các giai đoạn trên. Đơn giá dự toán áp dụng đơn giá của các dự án trước đó và từ khảo sát thị trường. Dự toán chi phí của dự án bao gồm cả chi phí chung, trượt giá, lợi nhuận và được dựa trên kinh nghiệm của các dự án đã thực hiện. Dự toán chi phí của dự án trong giai đoạn này không có mức dự phòng.

– Bảng khối lượng trong đấu thầu: Bảng khối lượng chi tiết thường không được sử dụng trong đấu thầu ở Mỹ. Các nhà thầu thường được yêu cầu tự đo bóc khối lượng và áp giá của mình cho các khối lượng đó.

2.2. Đo bóc khối lượng xây dựng ở Anh

Phương pháp chuẩn đo bóc khối lượng xây dựng được sử dụng phổ biến tại Anh cho các dự án xây dựng tòa nhà và công trình dân dụng.

– Giai đoạn ý tưởng thiết kế: Ở giai đoạn này không có bản vẽ. Tư vấn khối lượng (QS- Quantity Surveyor) sẽ tư vấn cho chủ đầu tư về các vấn đề liên quan đến tỷ lệ sử dụng đất, sử dụng không gian… và những vấn đề cần thiết để xác định m2 diện tích đường. Ngân sách dự án được xác định trên thông tin sơ bộ về dự án bằng cách tính toán m2 diện tích đường và chi phí của m2 diện tích đường. Tư vấn khối lượng có ngân hàng dữ liệu về m2 diện tích đường cho các loại công trình và tính toán dựa trên các tiêu chuẩn. Chi phí chung và trượt giá sẽ được tính vào chi phí m2 diện tích đường. Chi phí dự phòng ở giai đoạn này được tính bằng 10%.

– Giai đoạn khả thi: Ở giai đoạn này thông tin thiết kế chỉ bao gồm: Bản vẽ quy hoạch, bản vẽ phác thảo và mặt bằng. Dựa trên các thông tin trên, tư vấn QS có thể đo bóc, xác định được khối lượng m2 diện tích đường và ngân sách dự án sẽ được xác định trên cơ sở khối lượng m2 diện tích đường và các số liệu về chi phí m2 diện tích đường của dự án khác trước đây. Trong giai đoạn này, dự án có thể được chi tiết thành các hạng mục công trình như móng đường, nền đường, mặt đường… để đo bóc, xác định các m2 diện tích đường và sử dụng các chi phí m2 diện tích đường của dự án trước đó. Chi phí chung và trượt giá sẽ được tính vào chi phí m2 diện tích đường. Chi phí dự phòng ở giai đoạn này được tính bằng 10%.

– Giai đoạn thiết kế phác thảo: Ở giai đoạn này, bản vẽ kiến trúc đã có kích thước với mặt bằng và mặt đứng. Khái toán được chuẩn bị trên cơ sở m2 diện tích đường sẵn có của dự án. Trượt giá được tính toán đến khi xác định đơn giá. Chi phí chung tại công trường được tính riêng. Chi phí dự phòng được tính là 10%.

– Giai đoạn trước thiết kế sơ bộ: Thiết kế chỉ bao gồm: Bản vẽ kết cấu đã có kích thước (nhưng chưa có chi tiết cốt thép), danh mục hoàn thiện và có thể có cả bản vẽ cơ điện sơ bộ. Dựa trên thiết kế sơ bộ này và các triển khai chi tiết hơn, tư vấn QS sẽ đo bóc, xác định khối lượng và chuẩn bị các đơn giá để lập dự toán. Trượt giá được tính toán đến khi xác định đơn giá. Chi phí chung tại công trường được tính riêng.

– Giai đoạn thiết kế chi tiết 75%: Ở giai đoạn này, bản vẽ kết cấu đã có kích thước (chi tiết cốt thép các kết cấu chính), danh mục hoàn thiện chi tiết được xác định. Khối lượng được đo bóc, xác định hoàn toàn dựa trên cơ sở bản vẽ thiết kế, dựa trên khối lượng đo bóc và đơn giá để hoàn thiện dự toán. Đơn giá do QS xác định trên cơ sở dữ liệu. Trượt giá được tính toán đến khi xác định đơn giá. Chi phí chung tại công trường được tính riêng, chi phí dự phòng được tính 10%.

– Giai đoạn thiết kế chi tiết 90%: Thiết kế chi tiết gần như hoàn chỉnh, bản vẽ kết cấu đã có kích thước (các chi tiết như cốt thép cho các cấu kiện chính đã được hoàn thành), đã có danh mục hoàn thiện chi tiết. Khối lượng được tính toán chi tiết theo SMM và bảng khối lượng được lập dựa trên bản vẽ thiết kế. Đơn giá áp dụng sẽ được QS lấy từ các dự án trước đây và từ khảo sát thị trường. Trượt giá được tính toán đến khi xác định đơn giá. Chi phí chung tại công trường được tính riêng. Chi phí dự phòng được tính là 5 – 7%.

– Giai đoạn thiết kế chi tiết 100%: Thiết kế chi tiết hoàn thành. Bảng khối lượng được chuẩn bị cùng với các điều kiện hợp đồng, chỉ dẫn cho nhà thầu… để sẵn sàng phát hành hồ sơ mời thầu cho nhà thầu. Trượt giá được tính toán đến khi xác định đơn giá. Chi phí chung tại công trường được đưa vào mục công tác chuẩn bị ban đầu và từng công việc này được xác định riêng. Giai đoạn này không tính chi phí dự phòng.

2.3. Đo bóc khối lượng xây dựng ở Australia

Phương pháp chuẩn đo bóc khối lượng xây dựng được sử dụng tại Australia cho các dự án xây dựng tòa nhà và công trình dân dụng nhưng không thường xuyên như ở Anh. Trong nhiều trường hợp, SMM không được sử dụng và bảng khối lượng khi đó không có chuẩn rõ ràng.

Nguồn dữ liệu được tập hợp bởi các QS theo phương pháp tương tự như đã thực hiện ở Anh. Ngân sách dự án được xác định dựa trên diện tích mặt đường ở tất cả các dự án. Ngay sau khi ngân sách được phê duyệt, thiết kế sơ bộ sẽ được trình cho chủ đầu tư, QS sẽ lập kế hoạch chi phí mô tả ngân quỹ xây dựng của khách hàng sẽ được chi tiêu như thế nào. Kế hoạch chi phí được xác định trên cơ sở các yếu tố thiết kế, do đó mục tiêu chi phí sẽ được đưa ra cho từng thành viên nhóm thiết kế. Khi các quyết định về thiết kế được đưa ra, QS sẽ lập dự toán và dự toán này có liên quan đến kế hoạch chi phí đã được chấp thuận trước đó. Nếu vượt, hoặc kế hoạch chi phí hoặc thiết kế phải chỉnh sửa, chi phí dự phòng trong chi phí kế hoạch ban đầu sẽ giúp giải quyết vấn đề này. Ngay khi bản vẽ thiết kế thi công được chuẩn bị, các QS lập bảng khối lượng bao gồm chi tiết tất cả các khoản mục công tác theo thiết kế. Bảng khối lượng sau đó sẽ được áp giá và sử dụng để phân tích đề xuất dự thầu của các nhà thầu.

Thanh toán cho nhà thầu thường được thực hiện trên cơ sở khối lượng công việc thực hiện hàng tháng theo tính toán của nhà thầu và đơn giá và được kiểm tra bởi tư vấn QS.

2.4. Đo bóc khối lượng xây dựng ở Singapore

Phương pháp chuẩn đo bóc khối lượng xây dựng được sử dụng tại Singapore cho các dự án xây dựng. Đơn giá có thể áp dụng cho bất kỳ dự án nào sử dụng SMM. Nguồn dữ liệu được xác định bởi QS dựa trên ngân hàng dữ liệu của chính họ bao gồm chi phí tính trên 01m2 diện tích đường, chi phí bộ phận kết cấu và đơn giá bao gồm vật liệu, nhân công, máy thi công.

– Giai đoạn ý tưởng dự án: Ở giai đoạn này không có bản vẽ. Do vậy, QS sẽ tư vấn cho khách hàng về các vấn đề như tỷ lệ sử dụng đất, không gian… để xác định diện tích đường. Ngân sách xác định trên diện tích đường và chi phí của diện tích đường trong hệ thống dữ liệu các dự án trước đó. Chi phí chung tại công trường và trượt giá cũng được xem xét khi tính diện tích đường. Chi phí dự phòng giai đoạn này được tính là 10%.

– Giai đoạn khả thi: Ở giai đoạn này, thông tin thiết kế chỉ bao gồm bản vẽ quy hoạch, bản vẽ phác thảo và mặt bằng. QS có thể đo bóc, xác định được khối lượng diện tích đường. Trong giai đoạn này, dự án có thể được chi tiết thành các hạng mục công trình như nền, móng, mặt đường, thoát nước, cây xanh. Chi phí của diện tích đường có thể được QS chia ra trên cơ sở diện tích đường của các dự án tương tự trước đó. Chi phí chung tại công trường và trượt giá cũng được xem xét khi tính giá diện tích đường. Chi phí dự phòng giai đoạn này được tính 10%.

– Giai đoạn thiết kế tổng thể: Ở giai đoạn này, các bản vẽ kiến trúc đã có kích thước, các mặt bằng, mặt đứng. Chi phí được chuẩn bị trên cơ sở diện tích mặt đường của dự án nhưng xem xét đến một số thông số cụ thể… Trượt giá được tính đến khi lập đơn giá. Chi phí chung tại công trường được tách riêng. Chi phí dự phòng giai đoạn này được tính 10%.

– Giai đoạn trước thiết kế sơ bộ: Thiết kế chỉ bao gồm bản vẽ kết cấu đã có kích thước (nhưng chưa có chi tiết cốt thép), danh mục hoàn thiện và có thể có cả bản vẽ hạ tầng sơ bộ. Khi thiết kế được triển khai, thiết kế sẽ chi tiết hơn và theo đó dự báo chi phí xây dựng được QS dần hoàn thiện. Dựa trên các bản vẽ thiết kế chi tiết hơn này và thiết kế sơ bộ này, khối lượng và đơn giá sẽ có thể bắt đầu chuẩn bị để phát triển kế hoạch dự toán. Trượt giá được tính toán đến khi xác định đơn giá. Chi phí chung tại công trường được tính riêng.

– Giai đoạn thiết kế chi tiết 75%: Ở giai đoạn này, bản vẽ kết cấu đã có kích thước, danh mục hoàn thiện chi tiết được xác định. Khối lượng được đo bóc và đơn giá để hoàn thiện dự toán. Trượt giá được tính đến khi lập đơn giá. Chi phí chung tại công trường được tách riêng. Chi phí dự phòng giai đoạn này được tính là 10%.

– Giai đoạn thiết kế chi tiết 90%: Thiết kế chi tiết gần như hoàn chỉnh. Khối lượng được tính toán chi tiết theo SMM và bảng khối lượng được lập dựa trên bản vẽ thiết kế. Đơn giá áp dụng sẽ được lấy từ các dự án trước đây và từ khảo sát thị trường, trượt giá được tính đến khi lập đơn giá. Chi phí chung tại công trường được tách riêng và có thể tính theo tỷ lệ %. Chi phí dự phòng giai đoạn này được tính là 5 – 7%.

– Giai đoạn thiết kế chi tiết 100% và tài liệu hợp đồng: Thiết kế chi tiết hoàn thành. Bảng khối lượng được chuẩn bị cùng với các điều kiện hợp đồng, chỉ dẫn cho nhà thầu… để sẵn sàng phát hành Hồ sơ mời thầu cho nhà thầu. Trượt giá được tính đến khi lập đơn giá. Chi phí chung tại công trường được đưa vào mục công tác chuẩn bị và các công việc trong mục này được bỏ giá riêng. Không có chi phí dự phòng trong giai đoạn này.

3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Nghiên cứu kinh nghiệm đo bóc, sử dụng khối lượng của các nước trên thế giới cho thấy:

Ngân sách dự án thường được xác định ở giai đoạn đầu của quá trình thiết kế. Một số nước (Mỹ) khối lượng tính toán ngân sách dự án và đơn giá cho các khối lượng này được xác định từ các dự án tương tự đã thực hiện. Một số nước khác (như Anh, Australia…) sử dụng khối lượng diện tích đường để tính toán với hệ thống dữ liệu về chi phí tính theo đơn vị của diện tích đường để tính toán với hệ thống dữ liệu về chi phí tính theo đơn vị của diện tích đường các dự án trước đó.

Dự toán xây dựng được thiết lập và chính xác hóa theo các giai đoạn thiết kế và mức độ chi tiết mà bản vẽ thiết kế thể hiện. Khối lượng lập dự toán xây dựng được đo bóc từ bản vẽ thiết kế theo từng giai đoạn và hệ thống đơn giá được xác định từ hệ thống (ngân hàng) dữ liệu các công trình tương tự trước đó (được công bố hoặc do các công ty tư vấn thu thập), báo giá thị trường của các nhà cung cấp. Khối lượng đo bóc có thể được thể hiện dưới dạng bảng khối lượng và còn được dùng làm bảng khối lượng mời thầu (để các nhà thầu điền giá khi tham dự lựa chọn nhà thầu), trong đó có bổ sung các khối lượng về các công tác chuẩn bị tại công trường hoặc thêm vào phần “giá tạm thời” hoặc phần công việc thầu phụ được chỉ định.

Để phục vụ đo bóc khối lượng xây dựng, nhiều nước đã đưa ra hướng dẫn về phương pháp chuẩn đo bóc khối lượng để tránh việc sử dụng các phương pháp đo bóc khối lượng khác nhau đối với cùng một loại công trình. Ngoài ưu điểm thống nhất về cách thức đo bóc khối lượng xây dựng, việc sử dụng SMM cho phép tư vấn quản lý chi phí có thể sử dụng hệ thống đơn giá của các công trình đã sử dụng SMM trước đó khi xác định dự toán xây dựng.

SMM không phải được sử dụng ở tất cả các nước. Ngay tại một số nước sử dụng SMM cũng chỉ dùng cho một số dự án nhất định (ví dụ như dự án xây dựng nơi mà các công tác xây dựng dễ chuẩn hóa).

SMM không nhất thiết phải do Nhà nước ban hành mà có thể do các tổ chức hoặc hiệp hội nghề nghiệp ban hành nhằm sử dụng tại các nước mà ở đó chưa có hướng dẫn về phương pháp đo bóc khối lượng xây dựng công trình.

SMM rất thích hợp sử dụng trong việc đo bóc bảng khối lượng, bảng khối lượng này dùng để lập dự toán xây dựng hoặc lập bảng khối lượng mời thầu.

SMM thường được thiết kế trên cơ sở phân loại các nhóm công tác xây dựng và sau đó tiếp tục chia nhỏ thành các công tác, công việc có thể đo đếm được. Từng công tác, công việc được biểu thị bằng tên công tác, công việc, đơn vị tính, các quy tắc đo bóc, phạm vi công việc và quy tắc tính giá. Tuy nhiên, SMM chỉ có thể áp dụng đối với các loại công trình mà các công tác xây dựng có thể chuẩn hóa. Việc thực hiện đo bóc lập bảng khối lượng theo các phương pháp này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích, so sánh giá dự thầu theo bảng khối lượng với cơ sở dữ liệu.

SMM thường được thể hiện dưới hình thức các quy định, hướng dẫn hoặc hình thức lập bảng. Hướng dẫn về đo bóc khối lượng xây dựng ở Việt Nam thực hiện dưới hình thức các quy định, hướng dẫn và khá giống với quy tắc tính toán khối lượng dự toán công trình kiến trúc toàn quốc do Bộ Xây dựng ban hành năm 2010.

Hệ thống định mức dự toán xây dựng công trình do Bộ Xây dựng công bố cũng là một dạng SMM. Khi đo bóc khối lượng các công tác xây dựng mà áp dụng định mức (mã hiệu) thì có thể sử dụng hệ thống đơn giá dự toán (đã ban hành ở một số tỉnh, thành phố hiện nay).

Việc sử dụng SMM đòi hỏi yêu cầu tuân thủ các quy định, chỉ dẫn bởi nếu không thì số liệu sẽ không được chuẩn hóa và cơ sở tính toán đơn giá có thể bị thay đổi. Hạn chế này chính là lý do mà SMM không được sử dụng ở nhiều nước và nếu có áp dụng thì chỉ áp dụng cho các công trình dân dụng.

Việc quản lý chi phí đầu tư xây dựng trong đó có đo bóc khối lượng xây dựng thường do các chuyên gia dự toán hoặc QS chuyên nghiệp thực hiện.

4. KẾT LUẬN

Qua các kinh nghiệm từ hoạt động đo bóc khối lượng tại một số quốc gia có thể thấy công tác này đã được các quốc gia triển khai từ rất lâu và sớm hoàn thiện bài bản. Tại Việt Nam, Nhà nước đã công bố một số định mức dự toán xây dựng. Hệ thống các bộ định mức này được thiết kế trên cơ sở phân loại các nhóm công tác xây dựng, các công tác, công việc với đơn vị tính, phạm vi công việc và quy tắc tính giá xác định, điều này rất thuận lợi cho việc xây dựng phương pháp chuẩn đo bóc khối lượng các công tác xây dựng như các SMM trên thế giới. Do đó, để nâng cao công tác đo bóc khối lượng, đòi hỏi chúng ta phải học hỏi những kinh nghiệm của các nước trên thế giới.

Tài liệu tham khảo

[1]. Quyết định số 451/QĐ-BXD ngày 25/5/2017 của Bộ Xây dựng về việc Công bố Hướng dẫn đo bóc khối lượng xây dựng công trình.

[2]. Tài liệu đào tạo chuyên đề, Đo bóc các công tác xây dựng do Công ty Davis Langdon & Seah biên soạn năm 1997.

[3]. Báo cáo kết quả thực hiện dự án sự nghiệp kinh tế “Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác đo bóc khối lượng các giai đoạn của quá trình đầu tư xây dựng, trên cơ sở đó biên soạn sổ tay hướng dẫn thực hiện công việc này”, Viện Kinh tế Xây dựng, 2014.

[4]. Phương pháp chuẩn đo bóc các công tác xây dựng của Úc (Austrailian Standard Method of Measurement of Building Works) do The Austrailian Instute of Quantity Surveyoyrs and Master Buiders Australia Incorporated, xuất bản năm 1994.

[5]. Phương pháp chuẩn đo bóc đối với các công tác xây dựng (Standard Method of Measurement of Building Works) của Singapore.

[6]. Quy tắc đo bóc tiên lượng tiêu chuẩn quốc tế (Principles of Measurement (International) for Works of Construction).

Nguồn: tapchigiaothong.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Quảng cáo